Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2015

KIÊNG VIỆC XÁC


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC VỀ GIÁO LUẬT


GIỮ LUẬT KIÊNG VIỆC XÁC NHƯ THẾ NÀO?

 

 Lm. LG. Huỳnh Phước Lâm


1. Ý NGHĨA CỦA KIÊNG VIỆC XÁC
 Điều răn thứ hai trong “Sáu điều răn Hội Thánh” đã quy định: “Kiêng việc xác ngày Chúa nhật cùng các ngày lễ buộc[1]”.
Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, số 2184, đưa ra giải thích như sau:
“Như Thiên Chúa “nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất cả công trình” (St 2,2), đời sống con người cũng theo nhịp như thế giữa lao động và nghỉ ngơi. Khi lập ra ngày Chúa nhật, Thiên Chúa muốn mọi người có thời giờ nghỉ ngơi giải trí, để có thể chăm lo đời sống gia đình, văn hoá, xã hội và tôn giáo (GH 67,3).
Để hiểu rõ ý nghĩa ngày Chúa nhật của Kitô giáo, chúng ta cần nói qua ý nghĩa của ngày sa bát trong Cựu Ước là hình ảnh tiên trưng.
Trong Cựu Ước, ngày sa bát là ngày thánh, là “ngày nghỉ hoàn toàn để dâng cho Đức Chúa” (Xh 31,15):
“Ngươi hãy nhớ ngày sa bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa bátvà coi đó là ngày thánh” (Xh 21, 8-11).
 Về ngày sa bát, Thánh Kinh không những gợi cho Dân Chúa tưởng nhớ công trình sáng tạo, mà nhất là còn giúp cho Dân Chúa tưởng nhớ biến cố giải phóng It-ra-el khỏi ách nô lệ Ai Cập: “Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày sa bát” (Đnl 5,15).
Cũng như ngày sa bát được cử hành để tưởng nhớ những kỳ công Thiên Chúa thực hiện cho Dân của Giao Ước Cũ, thì ngày Chúa nhật, Dân của Giao Ước Mới nghỉ việc để  tưởng niệm công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, nhất là sự phục sinh của Người nhờ đó chúng ta được giải thoát khỏi làm nô lệ tội lỗi, sự chết và ma quỷ.

2. KIÊNG VIỆC XÁC NHƯ THẾ NÀO?
Trong Cựu Ước, ngày sa bát, người ta bị cấm không được làm bất cứ công việc nào (x. Xh 20,10; Lv 23,3; Đnl 5,14); còn trong những ngày lễ quan trọng khác (Lễ Vượt Qua, Lễ Bánh Không Men), chỉ cấm không được làm một công việc nặng nhọc (Lv 23, 7-8), là những công việc tay chân thuộc nghề nghiệp hằng ngày.
Còn trong Giáo Hội Công giáo, Điều 1247 của Bộ Giáo luật đã quy định vào các ngày Chúa nhật và các lễ buộc khác, tín hữu “còn phải kiêng làm việc xác và những công việc gây trở ngại cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc cho việc nghỉ ngơi cần thiết của tinh thần và thể xác”.
Quy định này cũng được lặp lại trong Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, số 2185, với sự bổ túc thêm một chi tiết là việc bác ái: “Ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tín hữu tránh lao động và các sinh hoạt ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, việc hưởng niềm vui trong ngày của Chúa, việc bác ái và tịnh dưỡng thể xác cũng như tinh thần”.
Trước kia, người ta thường để ý đến bản chất của công việc chứ không quan tâm đến ý hướng hoặc mục đích theo đuổi. Vì thế, không lạ gì khi người ta phân biệt công việc thành ba loại trong khi kiêng việc xác:
- Cấm các việc lao động thể xác.
- Được phép làm những việc lao động trí thức (dạy học, viết văn…).
- Cũng được phép làm những công việc chung cho mọi hạng người (thể dục thể thao…).
 Cách phân chia như thế xem ra không ổn. Thí dụ:
- Ngày Chúa nhật không ai có thể làm một việc tay chân để giúp đỡ kẻ khác, trong khi một giáo viên vốn đã khá giả có thể dạy học để được thêm giàu có.
- Một Kitô hữu tham dự thánh lễ xong, dành cả thời giờ còn lại của ngày Chúa nhật cho thể thao và cứ đều đều như thế, thì thử hỏi có phải là thánh hoá ngày Chúa nhật không?
Cho nên ở đây, Giáo Hội không còn phân định việc lao động tay chân hay lao động trí óc, nhưng nói rằng các tín hữu phải ngừng nghỉ tất cả các công việc làm ăn hàng ngày và các hoạt động (thể thao, giải trí, nghệ thuật…) để dành thì giờ và tâm trí cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho bầu khí vui tươi của ngày lễ, cho việc sống hiệp thông huynh đệ và cho việc thư giãn thể xác cũng như tâm hồn.
Tiêu chuẩn quyết định không còn do bản chất của công việc nhưng do mục đích của sự nghỉ ngơi ngày Chúa nhật.
Giáo Hội còn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Theo truyền thống đạo đức công giáo, ngày Chúa nhật phải là ngày dành riêng để làm việc lành và khiêm tốn phục vụ cho bệnh nhân, kẻ tàn tật và già lão. Người tín hữu cũng phải thánh hiến ngày Chúa nhật bằng cách dành thời giờ để chú tâm đến gia đình và thân hữu, những người mà thường nhật họ khó chú tâm tới. Ngày Chúa nhật cũng là thời gian suy tư, tĩnh lặng, rèn luyện và suy niệm cần thiết để đời sống nội tâm của tín hữu được phát triển” (GLHTCG, số 2186).

3. TRƯỜNG HỢP MIỄN CHUẨN
 Cũng như luật giữ ngày Chúa Nhật, luật kiêng việc xác cũng không nhất thiết áp dụng khắt khe trong mọi trường hợp.
Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, số 2185, quy định: “Luật giữ ngày Chúa nhật có thể được miễn chuẩn, khi có trách nhiệm gia đình hay nghĩa vụ xã hội quan trọng”.
Nếu vì lý do kinh tế, phải đi làm những ngày đó mới đủ sống cho bản thân và gia đình, hoặc nếu phải đi làm theo nhu cầu của lợi ích chung như bác sĩ, y tá làm việc ở các bệnh viện, nhân viên trực điện, nước, giao thông… thì đó là lý do chính đáng để được miễn trừ theo lương tâm và theo giáo lý của Giáo Hội.
Các Đức Giám Mục giáo phận và các Cha sở được quyền miễn chuẫn cho giáo dân của mình khỏi giữ luật kiêng việc xác, cũng như đối với luật dự lễ vậy (x. Điều 1245).
Tuy nhiên Giáo Hội cũng lưu ý chúng ta rằng: “Những tín hữu cũng phải coi chừng, đừng để những miễn chuẩn này dẫn đến thói quen thờ ơ với việc thờ phượng, với cuộc sống gia đình hay sức khoẻ của mình” (GLHTCG, số 2185).

[1] Tại Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài các ngày Chúa nhật, chỉ buộc giữ lễ
Chúa Giáng Sinh.



ĂN CHAY KIÊNG THỊT

KIẾN THỨC GIÁO LUẬT

(Lm. LG. Huỳnh Phước Lâm)

KIÊNG THỊT VÀ ĂN CHAY

 

1. Người Kitô hữu phải kiêng thịt vào những ngày nào?
Theo nguyên tắc chung, người Kitô hữu phải kiêng thịt, hay kiêng một thức ăn nào khác theo quy định của Hội Đồng Giám Mục, vào các ngày thứ sáu trong năm (Điều 1251).
Tuy nhiên luật này không còn buộc, khi ngày thứ sáu cũng trùng với ngày lễ trọng [1].
Ngoài ra Giáo Hội còn buộc kiêng thịt (và ăn chay) trong ngày thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh.

2. Trong ngày kiêng thịt, phải kiêng những gì?
Chúng ta không được ăn thịt, nhưng được ăn trứng, được dùng các thức ăn làm với sữa hay các loại nước chấm làm bằng mỡ động vật.
Thịt bị cấm là thịt các loài hữu nhũ và thảo cầm.
Không được xem là thịt bị cấm sử dụng: như các loại cá và các thức ăn biển, những loài có máu lạnh (ếch, trai, sò, rùa), những loài vừa sống trên bờ vừa ở dưới nước (lưỡng cư) và những loài bò sát…

3. Ai phải giữ luật kiêng thịt?

Luật kiêng thịt buộc các tín hữu từ 14 tuổi trọn [2]cho đến mãn đời (Điều 1252).
Tuy nhiên, những ai vì lý do sức khoẻ (bệnh tật), hay vì khả năng lao động  (thí dụ làm trong hầm mỏ) cần phải ăn thịt, hoặc những ai không được chủ cho ăn một thức ăn nào khác (đầy tớ, con cái, vợ) thì không buộc giữ luật này.

4. Có thể thay thế việc kiêng thịt bằng một hình thức khác không?

Hội Đồng Giám mục có thể ấn định rõ ràng hơn luật kiêng thịt [3] và ăn chay, cũng như có thể thay thế toàn phần hay một phần việc kiêng thịt và ăn chay bằng những hình thức sám hối khác, nhất là bằng những việc bác ái và việc đạo đức (Điều 1253).
Hội Đồng Giám mục Việt Nam, khoá họp tháng 4-1991 đã ấn định: các ngày thứ Sáu, có thể thay việc kiêng thịt bằng một việc đạo đức hay một việc từ thiện bác ái, như: đọc hay nghe một đoạn Lời Chúa, làm một việc hãm mình đền tội, bố thí cho người nghèo, làm việc công ích, v.v…
Như thế, để giữ luật hãm mình ngày thứ sáu, tín hữu Việt nam có thể kiêng thịt như luật chung Hội Thánh quy định, hay làm một việc đạo đức, từ thiện bác ái, như Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cho phép [4].

5. Ăn chay là gì? 

Chúng ta cần phân biệt 4 cách ăn chay:
- Chay tự nhiên (ieiunium naturale): là kiêng hẳn mọi của ăn, của uống.
- Chay luân lý (ieiunium morale): là hãm bớt của ăn uống, vui thú…
- Chay Thánh Thể (ieiunium eucharisticum): giữ lòng trống không để rước lễ [5].
- Chay Giáo Hội (ieiunium ecclesiasticum): đây là điều mà chúng ta muốn đề cập đến. 
Việc giữ chay Giáo Hội hệ tại ở chỗ ăn một bữa [6], còn hai bữa còn lại được phép ăn một chút, miễn là lưu ý đến lượng và phẩm của thức ăn mà tập tục địa phương mỗi nơi cho phép.
Giữa hai bữa ăn, cấm dùng thức ăn đặc, nhưngthức ăn lỏng (trà, nước trái cây, sữa…) có thể được dùng bất cứ lúc nào [7].

6. Những ai phải ăn chay?
Theo Điều 1252 của Bộ Giáo Luật hiện hành, luật ăn chay buộc tất cả mọi người Kitô hữu, từ tuổi thành niên (nghĩa là trọn 18 tuổi [8]) cho đến khi bắt đầu được 60 tuổi (nghĩa là cho đến hết 59 tuổi).
Những người bắt đầu 60 tuổi được miễn khỏi ăn chay, nhưng vẫn phải giữ luật kiêng thịt.

7. Phải ăn chay và kiêng thịt vào những ngày nào?
Phải kiêng thịt và ăn chay trong ngày thứ Tư Lễ Tro và ngày thứ Sáu kính cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Điều 1251).

8. Ai có quyền miễn chuẩn việc ăn chay kiêng thịt ?
1/ Đức Giám Mục giáo phận
Đức Giám Mục giáo phận có thể miễn chuẩn khỏi nghĩa vụ phải ăn chay kiêng thịt trong toàn giáo phận của mình cho những người có cư sở, bán cư sở cũng như người vãng lai.
Ngoài ra, Đức Giám mục cũng có thể miễn chuẩn cho những người thuộc quyền mình kể cả khi họ đang vắng mặt khỏi lãnh thổ giáo phận.
2/ Linh mục chính xứ
Theo Điều 1245, linh mục chính xứ cũng có năng quyền chuẩn chước như trên với những điều kiện sau đây:
- Khi có lý do chính đáng (x. Điều 90 [9]);
- Dựa theo những quy định của Giám Mục giáo phận,
- Trong từng trường hợp, nghĩa là linh mục chính xứ chỉ có thể chuẩn miễn cho từng lần chứ không thể miễn chuẩn dài hạn.
Linh mục chính xứ có thể miễn chuẩn hoặc thay thế việc ăn chay kiêng thịt bằng một việc đạo đức khác, đối với từng cá nhân hoặc gia đình những người thuộc quyền mình, cho dù họ không ở trong địa hạt, đối với những lữ khách hiện đang ở trong địa hạt giáo xứ (nếu không có gì minh nhiên ấn định ngược lại), cho cả chính mình nếu có lý do chính đáng (x. Điều 91 [10]), cho cả cộng đoàn giáo xứ nếu nhu cầu đòi hỏi [11].
Vì đây là quyền thông thường do luật ban cho, cho nên linh mục chính xứ có thể uỷ quyền [12].
3/ Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ thuộc luật giáo hoàng
 Bề Trên của một hội dòng hay của một tu đoàn tông đồ thuộc luật giáo hoàng cũng có quyền miễn chuẩn đối với những người thuộc quyền mình [13] và những người khác đêm ngày cư ngự trong nhà mình (Điều 1245).
Để xin miễn chuẩn, có thể đích thân đến xin, hoặc sử dụng thư từ, điện thoại, điện tín, hoặc qua trung gian người thứ ba.

1. Lễ trọng cũng được, chứ không cần phải là lễ buộc.
2. Bộ Giáo Luật cũ (1917) buộc mọi người ngay từ 7 tuổi trọn.
3. Thí dụ: kiêng thịt hay kiêng thức ăn nào khác.
4. Những ngày lễ Công Giáo 2007-2008, tr. 21-22.
5. Điều 919 §1. Ai muốn rước Thánh Thể thì ít là trong khoảng một giờ trước khi rước lễ phảikiêng mọi thức ăn, thức uống, chỉ trừ nước lã và thuốc chữa bệnh.
6. Bữa nào tuỳ ý, không cấm đưa bữa trưa lên bữa tối, và bữa tối xuống bữa trưa.
7. x. PHAOLÔ VI, Tông hiến Paenitemini, III, 1-2.
8. Điều 97 §1: Người trọn 18 tuổi là thành niên, dưới tuổi đó là vị thành niên.
9. Điều 90 :
§1. Không được chuẩn chước luật Giáo Hội khi không có lý do chính đáng và hợp lý, sau khi đã cân nhắc các hoàn cảnh và sự hệ trọng của chính luật được chuẩn chước, nếu không, việc chuẩn chước là bất hợp pháp và – trừ khi do chính nhà làm luật hay người trên ngài đã chuẩn chước – việc chuẩn chước còn bất thành sự nữa.
§2. Khi hồ nghi có đủ lý do hay không thì việc chuẩn chước thành sự và hợp pháp.
10. Điều 91: “Ai có quyền chuẩn chước thì kể cả khi ở ngoài địa hạt của mình, vẫn có thể thi hành quyền ấy đối với các người thuộc quyền, mặc dù họ không ở trong địa hạt, và nếu không minh nhiên quy định nghịch lại, thì còn có thể thi hành quyền ấy đối với cả những kiều cư hiện đang ở trong địa hạt, cũng như đối với chính mình nữa”.
11. x. Communicationes, 1980, tr. 358, Điều 43.
12. x. Điều 136-144.
13. Kẻ thuộc quyền là tu sĩ, tập sinh được chuẩn miễn bất cứ họ đang ở đâu vì là năng quyền đối nhân.

Nguồn, giáo phận http://www.gplongxuyen.com/tapsan/012008/l_kiegthit_ac.htm